Ngày 29 tháng 4 năm 1951, Đức Thánh Cha Piô XII tôn phong ông lên hàng Chân Phước, và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô tôn phong lên hàng Hiển Thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988. Lễ kính vào ngày 5/06.
Đaminh Toại sinh năm 1812 và Đaminh Huyên sinh năm 1817. Hai ông
là giáo hữu họ đạo Đông Thành, tỉnh Thanh Bình. Cả hai đã có gia
đình, là những gia trưởng đạo đức sốt sắng, luôn nêu gương mến
Chúa yêu người. Hai ông sống bằng nghề đánh cá, hằng ngày chày
lưới trên sông Nhị Bình, ở gấn cửa Ba Lạt. Tánh tình đơn sơ,
lương thiện, hai ông đều được các bạn đồng nghiệp và mọi người
thương yêu khen ngợi.
Tháng 8 năm 1861, vua Tự Đức bắt đạo gắt gao. Nhà vua ra chiếu
chỉ Phân Sáp, nhằm tận diệt người theo đạo Công Giáo. Theo chiếu
chỉ này, quân lính và người ngoại giáo được phép vào các làng
Công Giáo tịch thu tài sản và bắt các giáo hưũ đem nộp cho quan,
để khắc hai chử Tả Đạo lên má.
Lúc đó quân lính và người ngoại giáo kéo nhau vào họ đạo Đông
Thành. Sau khi vơ vét tài sản của người Công Giáo, họ bắt nhiều
người đem nộp cho quan huyện, trong số đó có ông Đa Minh Toại và
Đa Minh Huyên. Ông Toại vì bệnh đi lại không nổi, họ bảo ông nộp
tiền chuộc, họ sẽ thả ông về gia đình. Nhưng ông xin đi cùng họ
đến quan huyện vì ông muốn cùng các đồng đạo tuyên xưng danh
Chúa trước mặt mọi người, và hy sinh mạng sống làm chứng cho
đạo.
Quân lính dẫn hai ông đến huyện Quỳnh Côi, và giam vào ngục, đợi
ngày xét xử. Suốt chín tháng bị giam trong ngục, hai ông chịu
đói, khát, xiềng xích, nhưng không bao giờ than van, lúc nào
cũng vui vẻ sẵn sàng chịu gian lao khốn khó, trước là để lập
công nghiệp, sau là để nêu gương can đảm hy sinh cho các bạn
đồng đạo trong ngục. Chẳng những thế, hai ông còn thường xuyên
an ủi, khích lệ các bạn bền tâm giữ vững đức tin.
Trong thời gian bị giam giữ, nhiều lần hai ông bị điệu ra công
đường, buộc bước qua Thánh Giá, nhưng các ông cương quyết không
làm theo. Các quan bèn tìm cách dụ dỗ, hứa trả tự do và ban
nhiều tiền của, nếu hai ông đạp lên Thánh Giá. Hai ông đáp:
-Của cải đời này nay còn mai mất, không thể đem lại cho chúng
tôi hạnh phúc vững bền. Chỉ có Chúa mới làm cho chúng tôi sống
đời đời, được hưởng phước muôn đời. Chúng tôi quyết tin theo
Chúa để được người thương ban hạnh phúc đó.
Các quan nổi giận kết án thiêu sống hai ông. Hai ông vui mừng vì
được làm chứng cho Chúa, và thông phần trong việc cứu rỗi các
linh hồn.
Sáng ngày 5 tháng 6 năm 1862, hai ông Đa Minh Toại và Đa Minh
Huyên bước lên giàn hỏa thiêu. Trong khi ngọn lửa bốc cháy, hai
ông cất tiếng hát ngợi khen và cầu xin Chúa thêm sức mạnh để
hoàn thành sứ vụ.
Ngày 29 tháng 4 năm 1951, Đức Thánh Cha Piô XII tôn phong hai
ông lên hàng Chân Phước, và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô tôn
phong hai ông lên hàng Hiển Thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988.
vncatholic.org
Trường thi tử đạo
Ðaminh Huyên sinh năm Ðinh Sửu (1817)
Ðaminh Toại hiện hữu Nhâm Thân (1812)
Quê hương hai vị rất gần
Ðông Thành Ba Lạt chuyên cần trên sông
Ðêm đánh cá hừng đông Ba Lạt
Khi gió to thuyền bạt vô bờ
Gia đình cuộc sống đơn sơ
Vợ con trông đợi, đón chờ cầu mong
Nghề đánh cá trên sông, trên nước
Sống qua ngày hưởng được bình an
Bất ngờ chiếu chỉ vua ban
Hai ông bị bắt, giải quan huyện liền
Ông Huyên khỏe, ưu tiên giải trước
Ông Toại đau, tính chước vòi tiền
Nhưng ông từ chối đi liền
Ðón xe trình diện, chính quyền Quỳnh Côi
Trình quan án chúng tôi quyết định
Cả Toại, Huyên khẳng định đức tin
Tăng gia tống ngục xà lim
Thời gian chín tháng kẹp kìm đòn roi
Lòng quả cảm được coi về Chúa
Ủi an nhau đoan hứa sẵn sàng
Công đường bị dẫn tới quan
Ép buộc quá khóa, hoàn toàn chối không
Không lay chuyển hai ông chiến sĩ
Các quan đều đề nghị thiêu sinh
Hai ông biết án của mình
Ca vang chúc tụng, tôn vinh Chúa Trời
Hai ông nhốt mỗi người một cũi
Làm bằng tre ngồi cúi đợi chờ
Bỗng đâu lửa phựt bất ngờ
Ðông người hiện diện, cả giờ thiêu sinh
Hai chiến sĩ Ðaminh thọ án
Thật kiên cường, xứng đáng mẫu gương
Hai ngư phủ được Chúa thương
Nhị bình sông nước, hành hương Nước Trời
Phúc tử đạo sáng ngời Nhâm Tuất (1862)
Xác hai ông thiêu ngất khói cao
Tân Mão (1951) Toà Thánh ban trao
Suy tôn Á thánh tuôn trào hồng ân
Ðaminh Toại hiện hữu Nhâm Thân (1812)
Quê hương hai vị rất gần
Ðông Thành Ba Lạt chuyên cần trên sông
Ðêm đánh cá hừng đông Ba Lạt
Khi gió to thuyền bạt vô bờ
Gia đình cuộc sống đơn sơ
Vợ con trông đợi, đón chờ cầu mong
Nghề đánh cá trên sông, trên nước
Sống qua ngày hưởng được bình an
Bất ngờ chiếu chỉ vua ban
Hai ông bị bắt, giải quan huyện liền
Ông Huyên khỏe, ưu tiên giải trước
Ông Toại đau, tính chước vòi tiền
Nhưng ông từ chối đi liền
Ðón xe trình diện, chính quyền Quỳnh Côi
Trình quan án chúng tôi quyết định
Cả Toại, Huyên khẳng định đức tin
Tăng gia tống ngục xà lim
Thời gian chín tháng kẹp kìm đòn roi
Lòng quả cảm được coi về Chúa
Ủi an nhau đoan hứa sẵn sàng
Công đường bị dẫn tới quan
Ép buộc quá khóa, hoàn toàn chối không
Không lay chuyển hai ông chiến sĩ
Các quan đều đề nghị thiêu sinh
Hai ông biết án của mình
Ca vang chúc tụng, tôn vinh Chúa Trời
Hai ông nhốt mỗi người một cũi
Làm bằng tre ngồi cúi đợi chờ
Bỗng đâu lửa phựt bất ngờ
Ðông người hiện diện, cả giờ thiêu sinh
Hai chiến sĩ Ðaminh thọ án
Thật kiên cường, xứng đáng mẫu gương
Hai ngư phủ được Chúa thương
Nhị bình sông nước, hành hương Nước Trời
Phúc tử đạo sáng ngời Nhâm Tuất (1862)
Xác hai ông thiêu ngất khói cao
Tân Mão (1951) Toà Thánh ban trao
Suy tôn Á thánh tuôn trào hồng ân
Lời bất hủ: Ông Ðaminh Toại thường nói với các bạn tù
rằng: "Nào anh em hãy cam đảm lên! Chúng ta chịu khổ hình vì Ðức
Kitô, nên chúng ta phải đón nhận đau khổ cách nhẫn nại. Chúng ta
phải bền chí đến cùng, và nếu cần sẵn sàng hy sinh mạng sống vì
Chúa".
Lời bất hủ: Ông Huyên bị tống ngục tù Tăng Già. Suốt thời
gian chín tháng ở đây, mọi người có thể thấy rõ lòng quả cảm và
kiên cường của ông Huyên, nào đói khát, nào đòn vọt và ngay cả
án tử hình cũng không làm ông nản chí, ngược lại ông còn khích
lệ các bạn tù kiên trì giữ vững đức tin của mình.