Ðaminh Phạm Trọng Khảm,
chánh án, Dòng Ba Ða Minh; sinh năm 1780 tại Quần Cống, Nam
Ðịnh; chết ngày 13 tháng 1 năm 1859 tại Nam Ðịnh.
Ngài là một
nhân vật giầu có và được dân chúng kính nể, và cũng là bề trên
của Dòng Ba Ða Minh. Ngài cùng với con trai và nhiều người trong
tu hội phải chết vì bảo vệ cho các giáo sĩ. Phong Á Thánh 1951.
Lễ kính Ngày 13 tháng 1.
Đaminh
PHẠM TRỌNG KHẢM (1780-1859) - Quan Án
Đaminh Phạm Trọng
Khảm sinh khoảng năm 1780 trong một gia đình bảy anh em giàu có
tại làng Quần Cống tại làng Xã Lũ, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam
Định (nay thuộc phận Bùi Chu). Thân phụ ông là cụ Phạm Tri
Khiêm, một hương chức danh giá được dân làng trọng vọng. Hấp thụ
được nhiều tính tốt của cha cậu Khảm nổi tiếng là người con có
hiếu. Năm 18 tuổi, anh vâng lời song thân kết hôn cùng cô Anrê
phượng, một thiếu nữ đạo hạnh trong làng. Hai vợ chồng sống rất
thuận hòa, được dân làng tin phục mến yêu. Đặc biệt hai người
biết hiệp lực giáo dục và khích lệ con cái học hành. Con trai
ông là Cai Thìn cũng làm đến chức Chánh Tổng, được mọi người
kính nể và kiên trung làm chứng cho đức tin đến hơi thở cuối
cùng với cha của mình. Ba người con gái của ông là bà Nhiêu Côn,
Nhiêu Trữ và Hậu Địch cũng được đi học như các con trai, nổi
tiếng lanh lợi tháo vác.
Khi bị bắt, vợ cụ
An Khảm đã gần 80 tuổi, vừa là tiên chỉ trong làng vừa là hội
viên dòng ba, kiêm chức Trùm họ trong giáo xứ. Mọi người đều
công nhận cụ là người đạo đức, giàu lòng bác ái và lòng nhiệt
tình trong những trách vụ. Các thừa sai, cả các Giám Mục cũng
biết tiếng và cũng đến trọ nhà cụ trong những ngày khó khăn. Với
giáo xứ cụ cộng tác đắc lực với cha sở trong việc điều hành tổ
chức họ đạo. Với xóm làng cụ là một người đức độ, quan tâm đến
nhu cầu mọi người cả xác lẫn hồn, sẵn sàng chia sẻ của cải cho
kẻ nghèo khó, và khích lệ mọi người can đảm trước những bách
hại. Gia phả con cháu cụ đi lại rằng : "Gia nhân phải kiếm kẻ
nghèo khó vào ngồi chung thì cụ mới ăn cơm."
Vì sẵn của cải, cụ
chia sẻ cho mọi người, có lần cụ kiếm cớ đãi cả làng. Cụ cho anh
mõ đi rao khắp các hẻm mời mọi người ra ruộng tổ chức đua diều.
Ai thắng ai thua không thành vấn đề, miễn là mọi người được một
bữa no say.
Khi quân lính đến
bao làng Quần Cống, cụ tập họp mọi người lại, khuyên họ bền chí.
Để khích lệ những người nhát đảm, cụ nói : "Kẻ nào trong anh em
đạp lên Thánh Giá khi quan về, tôi sẽ đuổi ra khỏi làng, sẽ
không có chỗ mà chôn xác đâu". Thế rồi cụ bị bắt, và trên đường
áp giải những tín hữu "cố chấp" về Nam Định, cụ Án được tách
riêng, nhốt ngay trong thuyền của quan để khỏi ảnh hưởng đến
người khác. Nhưng suốt thời gian tù, cụ vẫn là chỗ dựa là nguồn
an ủi, là người khích lệ và chia sẻ tinh thần cũng như vật chất
cho các bạn tù.
Giuse PHẠM
TRỌNG TẢ (1800-1859) -
Luca PHẠM TRỌNG THÌN (1820-1859) - Chánh Tổng
Luca PHẠM TRỌNG THÌN (1820-1859) - Chánh Tổng
Cuộc đời của hai
ông Cai Tả, Cai Thìn tuy cách biệt nhau 20 tuổi đời, nhưng đã
hòa lẫn với nhau trong cùng bối cảnh lịch sử thời tử đạo, một vị
là cựu, một vị là Chánh Tổng làng Quần Cống. Phải làm gì bây giờ
chắc chắn hai ông đã phải bàn luận với nhau rất nhiều, để cùng
với sự ủy thác của đức Cha Sampecro Xuyên, giám mục giáo phận
Trung khi đó, hai ông chọn giải pháp hòa bình bằng phương thế
đối thoại. Một mặt với uy tín riêng, các ông trấn an các tín
hữu. Mặc khác quan hệ với quan tổng đốc để gợi lên quan tấm lòng
nhân ái và quãng đại. Rất tiếc, đường lối đó không đạt như sở
nguyện, nên hai ông đã trả giá cho sứ mạng hòa giải bằng chính
mạng sống của mình.
Giuse Phạm Trọng
Tả sinh khoảng năm 1800 tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân
trường tỉnh Nam Định. Cai Tả là anh em thúc bá với thánh Án
Khảm, là con Đaminh Phạm Thăng. Khi bị bắt ông đã 60 tuổi, là
một kitô hữu đạo đức, một hội viên dòng ba Đaminh và là cựu
chánh tổng đã chu toàn chức vụ của mình. Phụ lực với cháu Cai
Thìn, ông tìm cách giúp mọi người sống đạo trong hoàn cảnh khó
khăn. Gia phả con cháu ghi rằng : "Đầy tớ ông rất đông, chưa tết
ông đã đi thăm viếng từng nhà và cho tiền mừng rất hậu. Số tiền
ấy thường gấp đôi số quà cáp họ biếu xén ông trong năm. Tiền
thóc gia nhân vay mượn ông thường cho một nửa, nếu túng quá thì
cho luôn. Công nợ của dân trong làng cũng châm chước như thế.
Khi bà cai lên tiếng cằn nhằn, ông thản nhiên trả lời 'mình quên
nợ người chúa quên tội mình'".
Luca Phạm Trọng
Thìn là con trai cụ An Khảm, sinh khoảng năm 1820 tại làng Quần
Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định. Như ta đã biết
về cụ An Khảm, dưới mái nhà gia giáo và khá giả này, cậu Thìn đã
lớn lên trong bầu khí đạo đức, được ăn học thành người. Nhờ trí
khôn thông minh nhanh nhậu và chăm chỉ chuyên cần chẳng bao lâu
anh đã "công thành danh toại". Khi bị bắt ông Cai Thìn khoảng 40
tuổi và đang là Chánh Tổng, vừa quyền thế vừa uy tín. Thực ra
khi mới lên chức vụ này, vì giao tiếp với quan lại nhiều, có
thời kỳ ông có vợ nhỏ là cô Trung người Trà Lũ, nên thờ ơ việc
đạo nghĩa (vợ chính ông Cai Thìn là bà Maria Tâm). Nhưng sau nhờ
lời khuyên của thân phụ, nhất là của cha giải tội, ông đã thành
tâm sám hối. Từ đó ông trở thành một mẫu gương thánh thiện, một
gia trưởng và một hội viên dòng ba Đaminh đạo đức, một thủ lảnh
đáng tin cậy.
Năm 1858, tình
hình bắt đạo đang gia tăng, và liên quân Pháp-Tây Ban Nha đang
đe dọa dân Việt ở Đà Nẵng, vua Tự Đức thêm phẫn nộ ra lệnh cho
quan quân triệt để thi hành các sắc chỉ nhắm vào đạo gia tô.
Nhưng thực tế việc việc thi hành này lệ thuộc nhiều vào các quan
địa phương có sốt sắng hay không. Lợi dụng điều đó, Đức Cha
Sampedro Xuyên đã ủy thác cho Cai Tả và Cai Thìn trọng trách sứ
giả hòa bình, vì cũng thuộc thành phần lãnh đạo, dễ dàng tiếp
xúc với cấp trên.
Hiểu ý Đức Cha và
nắm tình hình các tín hữu Quần Cống, hai ông đã đến gặp trực
tiếp Tổng Đốc Nam Định, xin ông nương tay cho các tín hữu được
bình an, và hứa kêu gọi dân chúng trung thành với đức vua. Cuộc
thương thuyết sắp thành công, nhưng không ngờ lúc ấy tại Cao Xá,
một người vì bất mãn chính sách của nhà vua, đã xúi dục một nhóm
người nổi loạn chống lại các quan địa phương. Thế là vị Tổng Đốc
liền đổi ý, ra lệnh tiếp tục truy lùng các thừa sai, các đạo
trưởng và các giáo hữu có uy tín trong dân. Quan kết án Cai Tả,
cai Thìn là lừa dối và tìm dịp để bắt hai ông. Chúng ta sẽ biết
cơ hội để quan thực hiện ý đồ đó trong phần sau.
Ba lần ra trước
tòa, cả ba lần hai ông đều cương quyết không bước qua Thập Giá,
dù bị dọa nạt đánh đập. Khi quan yêu cầu hai ông viết những suy
nghĩ của mình lên giấy, Cai Thìn đã viết bảng tuyên xưng Đức Tin
rõ rệt và can đảm như : "Tôi là một Kitô hữu, tôi sẳn sàng chấp
nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi
phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ. Chính tay tôi viết
điều này Luca Thìn".
Ông Cai Tả không
cương quyết không xúc phạm Thánh Giá, ông còn khuyên bảo mọi
người đừng phạm thứ tội mà ông gọi là "ghê tởm" đó .
Nếu Đức Giêsu
Hoàng Tử Bình An đã dùng Thánh Giá khổ nhục để hòa giải nhân
loại bạc bẻo với Chúa Cha thì cuối cùng, hai ông Cai Tả và Cai
Thìn sẽ mãi mãi là sứ giả Hòa Bình bằng cái chết để chứng tỏ
lòng mình luôn trung tín với Thiên Chúa và trung thành với Giáo
Hội.
* *
*
*
Năm 1858 khởi đầu
cho giai đoạn 5 cuộc bách hại đạo gay gắt nhất trong lịch sử
Giáo Hội Việt Nam. Nhà vua treo giải thưởng xứng đáng cho những
ai tố cáo nơi trú ẩn của các vị thừa sai Âu Châu và ngược lại sẽ
trừng trị đích đáng những kẻ chứa chấp họ. Thế là các Ngài phải
nay đây mai đó, trốn từ làng này qua làng khác. Quần Cống là một
nơi ẩn náu khá an toàn, vì các chức sắc trong làng là ngừơi Công
Giáo, và chính họ sẵn sàng đón tiếp các Ngài. Đức cha Sampedro
xuyên, đại diện tổng tòa giáo phận Trung dự đoán có thể bị bắt
bất ngờ, đã thủ phong giám mục phó cho Đức cha Valentino Vinh
ngày 14-06 tại ninh Cường, hai cha Riano Hòa và Carrerras Hiển
là phụ phong. Sau đó cả bốn vị đều ẩn tại làng Quần Cống, trọ
tại nhà cụ An Khảm, Cai Tả và Nhiêu Côn.
Quan An sát Nam
Định được mật báo làng Quần Cống chứa chấp Tây dương đạo trưởng,
liền huy động quân lính đến vây bắt. Nhưng cụ An Khảm kịp biết
tin, vội vàng tìm cách đưa các vị thừa sai trốn khỏi làng. Đức
cha Vinh và hai Linh mục qua làng Trà Lũ. Đức cha Xuyên đi qua
Kiên Lao (ngày 08-07 mới bị bắt). Sau khi các thừa sai đã đi xa,
cụ cho mỏ làng đi trước, đích thân cầm roi đi sau, bắt mõ làng
rao lớn tiếng : "Trình quan viên làng nước, có lệnh cụ Án truyền
rằng : người nào quá khóa phải phạt ba roi và bị đuổi ra khỏi
làng." Rồi cụ tụ tập dân lại khích lệ họ.
Sau đó, quan quân
ùa vào làng, họ bắt toàn thể dân làng tập trung lại, và rồi gọi
cụ An Khảm ra trình diện và nói : "Mau nộp ngay lập tức các đạo
trưởng Tây dương và bản quốc, cũng như bọn thầy giảng lẩn trốn
trong làng. Nếu bất tuân lão sẻ bị bắt, bị tịch thu tài sản, nhà
cửa sẽ bị thiêu hủy, còn chíng lão sẽ bị kết tội chống cưỡng nhà
vua." Cụ An Khảm hết sức bình tĩnh vì biết chắc các thừa sai đã
trốn xa rồi, cụ mạnh bạo trả lời : "Đúng, đạo chúng tôi có các
đạo trưởng nhưng các ngài ở đâu làm sao chúng tôi biết được. Xin
quan cứ tự do lục soát nếu tìm thấy vị nào trong làng thì quan
muốn làm gì cũng được."
Thế là quân lính
chia nhau lục soát khắp ncả nhà, dĩ nhiên là không tìm thấy một
linh mục. Nhưng lính lại phát hiện được một số tượng ảnh, áo lễ
nên chủ nhà bị kết tội là chứa chấp đạo trưởng. Cụ An đã đứng ra
nhận là mình đã mua những thứ đó. Tuy vậy quan vẫn ra lệnh bắt
trói cả nhà.
Trở lại nơi tập
trung dân làng, quan An sát cho đặt một Thánh Giá ngay giữa sân,
rồi bắt mọi ngừơi lần lượt bước qua. Nhưng quan đã thất bại dù
lính có đi tới đi lui đe dọa, toàn thể dân làng không một ai
bước qua Thánh Giá. Một bô lão có lẽ vì quá sợ, run rẩy tiến lên
vài bước, định thi hành lệnh quan, nhưng cụ An nhanh chân hơn
cản lại và khiển trách. Viên quan tức giận quát lên rằng : "Ta
sẽ mất chức nếu không kết tội đươc An Khảm và bọn người vô phúc
này." Thế rồi quan lại bắt trói An Khảm, Cai Tả và Cai Thìn và
một số người khác, rồi giải về Nam Định, riêng cụ An được chở đi
trong thuyền của quan.
Chúng tôi được nước Thiên Đàng
Về tới Nam Định,
hai cha con cụ An Khảm được gặp nhau trong những lần ra tòa, và
sau này được giam chung. Hai cha con vui mừng và xúc động khuyến
khích nhau chịu khổ vì lòng kính mến chúa Kitô.
Tất cả những tù
nhân Quần Cống hẹn với nhau quyết tâm trung thành với đức tin,
dù phải hy sinh mạng sống. Riêng cụ An Khảm đã nhiều lần đại
diện cả nhóm trả lời với quan, đã tìm cách giáo lý trong đạo.
Một hôm sau khi
bắt được Đức Cha Xuyên, quan cho dẫn ba ông đến trước mặt Đức
Cha. Các ông kính cẩn chào hỏi và không dấu được niềm vui gặp
lại vị chủ chăn của mình. Thấy thế quan phỏng đoán và kết tội
các ông chứa chấp vị thừa sai này. Tuy thực sự Đức Cha đã ở nhà
mình, cụ An Khảm tìm cách trả lời chung chung : "Là ngừơi tín
hữu, chúng tôi tôn kính và yêu mến bất cứ một linh mục nào, dù
chưa hề quen biết."
Sau bốn tháng rưỡi
bị giam, một hôm quan báo cho biết là cả ba vị đều bị kết án xử
giảo. Ông Cai Thìn hỏi lại án đã kết tội gì, quan cho hay là tội
chống lại nhà vua. Ong Thìn cực lực phản đối. Cuối cùng theo đề
nghị của ông, bản án được viết thêm bốn chữ "bất khẳng quá
khóa"; nghĩa là tội không chịu bước qua Thập Giá. Các ông vui
mừng hân hoan vì được chết cho Đức Kitô. Và trong những ngày còn
lại, các ông chuẩn bị sốt sắng đón chờ ngày lãnh nhận hồng phúc
tử đạo.
Ba vị chứng nhân
đức tin đã cảm nghiệm sâu xa lời Đức Kitô chúc phúc cho những
người bách hại vì danh Ngài. Đối với ba vị, bị bắt chịu khổ
nhục, bị giết vì danh Đức Kitô là niềm vinh phúc lớn lao. Các vị
đã hân hoan đón chờ nó, đồng thời khích lệ an ủi các tín hữu
khác. Và khi nghe báo giờ xử tử đã tới, cụ An Khảm vui vẻ nói
với mọi người : "Cha con chúng tôi hôm nay được nước Thiên
Đàng". Cả ba vị đã sẵn sàng giả từ trần gian để về hợp đoàn với
hàng ngũ các thánh Tử Đạo, và mở rộng đôi tay đón nhận phần
thưởng vinh phúc Chúa đã hứa ban cho những tôi trung của Ngài.
Ngày 13-01-1859,
ngoài ba vị An Khảm, Cai Tả và Cai Thìn còn có bảy giáo hữu làng
Quần Cống khác được đưa ra pháp trườngBảy Mẫu, Nam Định. Trên
đường đi các vị lớn tiếng đọc kinh. Đến nơi xử các vị tiếp tục
đọc kinh Tin, Cậy, Mến và nhiều lần kinh Ăn Năn Tội chung với
nhau, rồi lớn tiếng kêu Chúa Giêsu.
Quân lính mạnh tay
xô các vị té ngửa trên đất, rồi trói chân tay từng người vào cọc
đã chôn sẵn. Mỗi người bị hai người lính cầm hai đầu dây thừng
tròng qua cổ và kéo thật mạnh cho đến khi tắt thở. Các tín hữu
làng Quần Cống rước các vị đưa về quê mình, và tổ chức an táng
trọng thể.
Đức Piô XII đã suy
tôn ba anh hùng tử đạo : Đaminh Phạm Trọng Khảm, Giuse Phạm
Trọng Tả, Luca Phạm Trọng Thìn lên bậc chân phước ngày
29-04-1951. Ngày 19-06-2002, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các
Ngài lên hàng hiển thánh.
Nguồn từ tu
viện Đa Minh
Trường Thi tử Đạo
Bảy chín tuổi cụ
Phạm Trọng Khảm
Sống qua thời dưới tám triều Vua
Gia đình Quần Cống quê mùa
Mẹ cha phú quý chẳng thua thị thành
Phần con cái hạ sanh được bảy
Cả gái trai hết thảy đều ngoan
Mười tám tuổi quen một nàng
Kết hôn chị Phượng người làng đoan trang
Vợ chồng sống đảm đang đạo đức
Ðược bốn con rất mực nết na
Cụ ham học, giỏi tề gia
Dùi mài kinh sử thật là thông minh
Thi đỗ đạt Triều đình phong chức
Án Sát Quan nhất mực thanh liêm
Nhưng sau cụ bị tố liền
Là người Công giáo vua truyền nghe theo
Bị cách chức, phẩm đeo lột hết
Về xóm làng, khăn xếp bạch đinh
Ðức tin cụ vẫn nhiệt tình
Bước theo chân Chúa, tôn vinh danh Ngài
Nơi làng cũ triển khai làm ruộng
Rất cần cù ưa chuộng tình thương
Giúp người lạc lối lỡ đường
Giàu lòng bác ái giáo lương một nhà
Chia của cải gần xa nghèo túng
Nhập dòng ba hướng đúng Ðaminh
Nghèo hèn cụ trọng chẳng khinh
Ðón mời kẻ khó gia đình ăn chung
Ðược Cha xứ trong vùng tín nhiệm
Ðặt làm trùm đại diện giáo dân
Sau bầu lý trưởng thấy cần
Phải nhờ Giám mục lãnh phần động viên
Cụ Trọng Khảm nể liền đảm nhận
Rất nhiệt tình tường tận giúp dân
Các Thừa sai khắp xa gần
Những ngày gặp khó ân cần giúp ngay
Dân mộ mến thăng ngay Tiên Chỉ
Vẫn giữ luôn hoan hỉ đạo đời
Thanh liêm vọng tiếng khắp nơi
Án Quan từ bỏ rạng ngời đức tin
Tại Bảy Mẫu vui nhìn xử trảm
Chúa thưởng ban xứng đáng Nước Trời
Ðaminh Trọng Khảm lìa đời
Ðược phong Hiển thánh rạng ngời Thiên Cung
Quan Án Sát oai hùng từ bỏ
Trong gia đình giàu có sẻ chia
Bạch đinh từ chối mũ hia
Lý hình xử giảo cắt lia thân mình
Phạm Trọng Khảm hy sinh tử đạo
Vẫn kiên trung loan báo Tin mừng
Thánh nhân gương mẫu sáng trưng
Tôn vinh danh Chúa lẫy lừng năm Châu
Phạm Trọng Khảm sinh đầu Canh Tý (1780)
Năm Kỷ Mùi (1859) vì đạo chứng minh
Tân Mão (1951) Toà Thánh thuận tình
Suy tôn Chân phước hiển vinh Nước Trời
Sống qua thời dưới tám triều Vua
Gia đình Quần Cống quê mùa
Mẹ cha phú quý chẳng thua thị thành
Phần con cái hạ sanh được bảy
Cả gái trai hết thảy đều ngoan
Mười tám tuổi quen một nàng
Kết hôn chị Phượng người làng đoan trang
Vợ chồng sống đảm đang đạo đức
Ðược bốn con rất mực nết na
Cụ ham học, giỏi tề gia
Dùi mài kinh sử thật là thông minh
Thi đỗ đạt Triều đình phong chức
Án Sát Quan nhất mực thanh liêm
Nhưng sau cụ bị tố liền
Là người Công giáo vua truyền nghe theo
Bị cách chức, phẩm đeo lột hết
Về xóm làng, khăn xếp bạch đinh
Ðức tin cụ vẫn nhiệt tình
Bước theo chân Chúa, tôn vinh danh Ngài
Nơi làng cũ triển khai làm ruộng
Rất cần cù ưa chuộng tình thương
Giúp người lạc lối lỡ đường
Giàu lòng bác ái giáo lương một nhà
Chia của cải gần xa nghèo túng
Nhập dòng ba hướng đúng Ðaminh
Nghèo hèn cụ trọng chẳng khinh
Ðón mời kẻ khó gia đình ăn chung
Ðược Cha xứ trong vùng tín nhiệm
Ðặt làm trùm đại diện giáo dân
Sau bầu lý trưởng thấy cần
Phải nhờ Giám mục lãnh phần động viên
Cụ Trọng Khảm nể liền đảm nhận
Rất nhiệt tình tường tận giúp dân
Các Thừa sai khắp xa gần
Những ngày gặp khó ân cần giúp ngay
Dân mộ mến thăng ngay Tiên Chỉ
Vẫn giữ luôn hoan hỉ đạo đời
Thanh liêm vọng tiếng khắp nơi
Án Quan từ bỏ rạng ngời đức tin
Tại Bảy Mẫu vui nhìn xử trảm
Chúa thưởng ban xứng đáng Nước Trời
Ðaminh Trọng Khảm lìa đời
Ðược phong Hiển thánh rạng ngời Thiên Cung
Quan Án Sát oai hùng từ bỏ
Trong gia đình giàu có sẻ chia
Bạch đinh từ chối mũ hia
Lý hình xử giảo cắt lia thân mình
Phạm Trọng Khảm hy sinh tử đạo
Vẫn kiên trung loan báo Tin mừng
Thánh nhân gương mẫu sáng trưng
Tôn vinh danh Chúa lẫy lừng năm Châu
Phạm Trọng Khảm sinh đầu Canh Tý (1780)
Năm Kỷ Mùi (1859) vì đạo chứng minh
Tân Mão (1951) Toà Thánh thuận tình
Suy tôn Chân phước hiển vinh Nước Trời
Lời bất hủ: Thánh nhân can đảm tuyên bố trước anh em
binh sĩ: "Kẻ nào trong anh em đạp lên Thánh giá, khi quan
về, tôi sẽ đuổi ra khỏi làng, sẽ không có chốn nào chôn xác
đâu".
Lời tâm niệm chung 1: Chúng ta noi gương các thánh Tử
đạo Việt Nam, hết lòng kính mến Chúa và yêu thương mọi
người, bằng cách giúp đỡ tha nhân phần hồn lẫn phần xác,
trọn đời chịu cực chịu khó để tin thờ Thiên Chúa, sẵn sàng
hy sinh giúp đỡ những người làm việc tông đồ, và nâng đỡ anh
em đồng đạo, trung thành với Chúa, với Giáo hội cho đến hơi
thở cuối cùng...