Sau khi bị bắt, ngài bị căng xác trên một cái giá và bị cưa làm hai mảnh, cùng với Thánh Nicholas Thể. Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ 13 tháng 6.
Vào năm Minh Mệnh thứ 19, nhà vua truyền cho các quan phải bắt
các lính có đạo trong quân ngũ phải quá khóa. Quan tổng đốc tỉnh
Nam Ðịnh hồi đó là Trịnh Quang Khanh. Chiếu chỉ của vua cho
Trịnh Quang Khanh như sau: "Nếu khanh muốn giữ vững thủ cấp trên
cổ, khanh phải tuân theo lệnh của trẫm. Trẫm trao phó cả ngàn
quân sĩ và đặt hết tín nhiệm nơi khanh. Hạn cho khanh trong vòng
một tháng phải bắt tất cả các linh mục trốn tránh trong tỉnh, và
thanh trừng các lính Công Giáo trong quân ngũ đến đứa cuối cùng.
Trẫm không muốn giết chúng, nhưng trẫm muốn chúng bỏ đạo."
Thừa lệnh của vua, Trịnh Quang Khanh đã thề tiêu diệt đạo Công
Giáo đến nỗi không có một quan nào dữ tợn hơn ông trong lịch sử
bách đạo tại Việt Nam. Ðể thi hành đắc lực lệnh của nhà vua,
Quan Trịnh Quanh Khanh còn sáng chế ra những hình phạt kinh
khủng để làm cho người Công Giáo hoảng sợ mà chối đạo. Ðối với
những người nhất định không chối đạo, thì ông dùng tù đày, hoặc
khuyến dụ bằng những lợi lộc hoặc chức quyền. Ông cũng không
quên dùng những người Công Giáo đã bỏ đạo để làm lung lạc các
chiến sĩ của Chúa. Có khi ông còn dùng áp lực phạt thân nhân của
các người Công Giáo, để vì thương hại thân nhân mà chối đạo.
Trong thành Nam Ðịnh vào năm 1838 có tất cả chừng 500 lính Công
Giáo bị điệu ra trước tòa để xử. Dĩ nhiên không phải cả 500
người đều là những Công Giáo tốt. Trong số này, có đủ loại
người, có người đạo đức và có người sống đời bê bối. Nhưng họ
đều có đức tin. Tuy nhiên Trịnh Quang Khanh cho điệu tất cả các
lính tới hầu tòa. Trước khi hầu tòa, quan cho các ông ăn uống no
say. Sau khi ăn uống, quan cho cả ngàn quân lính võ trang bao
vây các ông lại. Trên khán đài, quan tổng trấn ngồi chễm trệ,
với các chức sắc dân sự và quân sự ngồi theo thứ tự đẳng cấp. Ở
một phía bên của tòa án, lý hình với đủ mọi hình cụ dữ tợn để
dọa các lính trung kiên với giáo hội. Ở phía khác, quan truyền
đặt nhiều cây thánh giá để lính Công Giáo phải bước qua. Trịnh
Quang Khanh đứng lên, bước tới phía trước khán đài, rồi truyền
lệnh cho quân sĩ. Ông hứa hẹn rất nhiều lợi lộc của vua ban cho
quân sĩ chối đạo. Ông cho họ biết ông đối xử với quân lính như
người cha, như người mẹ. Tuy nhiên ông muốn biết chắc chắn rằng
quân sĩ của ông phải nghe lời ông thì mới được hưởng tước lộc
vinh hoa phú quý. "Ðức vua không thể sai lầm, ngài đã cấm
theo đạo Gia Tô. Vậy mọi người phải bỏ đạo đó."
Quan không đòi hỏi gì khác, chỉ cần quân lính bước qua thập giá.
Quân lính đó sẽ được phục chức trong quân đội và không ai đả
động đến tôn giáo này với họ trong tương lai nữa. Ông cũng không
quên đe dọa những phần tử bất tuân lệnh của ông. Ông chỉ về phía
các hình cụ để đe dọa những phần tử bất tuân.
Sau khi tuyên bố những lời vừa khuyến dụ vừa đe dọa, quan truyền
cho các quân sĩ phải lần lượt bước qua thập giá. Một số rất lớn
đã vâng lời quan bước qua thập giá, một số khác thì từ chối ngay
từ đầu. Nhưng quân lính dùng sức lôi họ qua thập giá rồi kể như
họ đã bỏ đạo. Cũng có người thì dùng tiền hối lộ để khỏi bị lôi
qua thập giá. Những người này, quan cũng coi như đã bỏ đạo.
Sau cuộc xét xử hỗn loạn bắt 500 lính Công Giáo bỏ đạo, các quan
vô cùng hoan hỉ, vì phần lớn đã chối bỏ đức tin. Những người
chối đạo này trở về nhà bị lương tâm cắn rứt. Nhiều người suốt
đời ăn năn thông hối, mỗi khi đi xưng tội thì chỉ khóc lóc vì
tội phản bội của mình. Có người hối hận suốt đời. Có người vẫn
khóc khi đi xưng tội dù đã 40 năm sau. Như trong truyện của các
cha truyền giáo kể lại, có người vào tòa xưng tội chỉ khóc lóc,
còn tội thì chẳng phạm tội gì nặng cả. Cha hỏi tại sao con cứ
khóc mỗi khi con đi xưng tội, thì ông trả lời: "Thưa cha,
con bất hạnh đã đạp thánh giá Chúa, đã 40 năm nay con hối hận
khóc lóc mỗi ngày. Sao con còn dám phạm tội nào khác nữa?"
Trong số 500 quân lính cũng còn 15 người nhất định không để cho
lính kéo qua thập giá. Họ nhất quyết xưng mình là Kitô hữu. Lập
tức họ bị đánh đập tra tấn. Quan truyền lấy gông nặng đeo vào cổ
các ông và truyền lệnh giải các ông vào nhà lao. Trong nhà lao,
chân tay các ông bị cùm, và bị bỏ đói, tuy nhiên các tín hữu vẫn
có thể hối lộ để nuôi các ngài. Ngày hôm sau, quan tìm cách khác
thay vì đánh đập, quan bắt bạn bè, vợ con của 15 ông này phải
khuyên nhủ các ông bỏ đạo. Những lính đã bỏ đạo cũng được lệnh
phải khuyên nhủ các ông. Nhưng các ông vẫn trung thành. Quan lại
truyền quân lính đánh đập các ông. Quân lính lại lôi các ông qua
thập giá, nếu ông nào nhấc chân lên không chịu đạp lên thánh giá
thì bị quân lính dùng roi đánh vào chân các ông. Thậm chí chúng
còn buộc thánh giá vào chân các ông để các ông bước đi, rồi hô
lên các ông đã bỏ đạo. Các ông phản đối và quyết xưng mình là
Kitô hữu. Quân lính tức giận lại đánh các ông rất đau đớn. Vừa
bị đòn đánh, vừa bị thân nhân và bạn bè dùng đủ mọi lý do để
khuyên nhủ các ông bỏ đạo, sau cùng không chịu được nữa, sáu ông
đã xin bỏ đạo.
Bây giờ con số còn lại chỉ còn có chín ông. Can đảm nhất trong
chín ông là ông Augustinô Huy. Chín ông bị điệu về ngục thất.
Ðêm ấy ông Huy, dù đã xưng đạo ra hai lần vẫn cảm thấy mình tội
lỗi cần phải gặp cha để đi xưng tội. Ông Huy là người Công Giáo
nhưng ông có hai vợ. Ông đã cưới người vợ có đạo, rồi sau lại
cưới một người ngoại đạo ở tỉnh. Ông tìm cách hối lộ để có thể
về nhà giải quyết vấn đề gia đình và gặp cha để lo xưng tội. May
mắn, ông gặp Cha Thiều cũng có tên là Cha Năng đang làm phúc tại
họ Phú Ðường gần nhà ông. Ông đến xin Cha Thiều tha tội. Cha
Thiều buộc ông phải làm tờ giấy bỏ vợ hai. Cha cũng an ủi ông và
khuyên ông vững lòng chịu khổ vì đạo. Ông Huy vâng lời. Sau khi
chịu các phép bí tích, sáng ngày hôm sau, ông lại trở lại nhà
giam để chuẩn bị cho cuộc xưng đạo thứ ba.
Ngày ấy, chín người lính lại bị điệu ra trước tòa. Trong phiên
tòa, quan Trịnh Quang Khanh lại hứa hẹn ban nhiều bổng lộc của
nhà vua cho ai chối đạo, và sẽ phạt nặng nề những ai bất tuân.
Trong số chín ông, bốn ông lại xin bỏ đạo. Chỉ còn năm ông nhất
định không chịu quá khóa. Quan Trịnh Quang Khanh thấy vậy rất
tức giận, truyền cho quân lính đánh các ông nát cả thịt ra. Quan
còn truyền lấy búa đập vào các ngón tay cùng nhiều hình khổ khác
đánh đập các ông làm các ông đau khổ mà không thể chết được. Ông
không muốn giết các ông mà chỉ mong muốn các ông bỏ đạo.
Sau khi thất bại làm lay chuyển lòng dạ sắt đá của năm ông, quan
bực mình vừa nguyền rủa vừa truyền tống giam các ông vào ngục
như cũ.
Thất bại trong việc diệt trừ đạo Công Giáo, quan Trịnh Quang
Khanh bị vua khiển trách và cất chức tổng đốc Nam Ðịnh. Ông bị
giáng cấp xuống tuần phủ. Ngày 12 tháng 4 nhuận năm ấy, ông Lê
Văn Ðức đang làm tổng đốc Sơn Tây, được cử làm tổng đốc Nam
Ðịnh. Ông Lê Văn Ðức cũng theo lối của Trịnh Quang Khanh mà bắt
các ông này phải bỏ đạo. Ông Huy và các bạn vẫn cương quyết
trung thành với Chúa.
Ngày 25 tháng 6 năm 1838, tại tỉnh Nam Ðịnh quan truyền xử tử
Ðức Cha Minh (Henares) và Thầy Phanxicô Chiểu. Quan thượng cũng
truyền đem cả năm ông lính đi nữa, giả cách như phải xử một trật
với hai đấng kia. Mục đích của quan là để các ông sợ chết mà bỏ
đạo. Trái lại các ông vẫn không sợ mà lại vui mừng vì tưởng giờ
tử đạo của mình đã đến. Các quan thấy các ông vui mừng lại càng
ngạc nhiên, không hiểu tại sao các ông lại muốn được chết vì
Chúa. Quan lại truyền điệu các ông về ngục như cũ. Các ông thấy
mình không được chết vì đạo, thì lại buồn hết sức.
Sáng ngày hôm sau, 26 tháng 6 quan tổng trấn lại truyền năm ông
phải hầu tòa, ông cố gắng hết sức nào áp dụng các hình cụ mà ông
mới sáng chế ra, nào đe dọa, nào khuyên nhủ với nhiều hứa hẹn.
Các ông vẫn không chịu bỏ đạo. Quan tổng trấn lại truyền đánh
đập các ông sưng cả mặt mũi, máu chảy đầm đề. Dù bị đánh đập tàn
nhẫn không còn hình tượng người ta nữa, khi hỏi có còn xưng mình
là Kitô hữu nữa không, các ông vẫn khẳng khái tuyên xưng các ông
vẫn là kẻ có đạo. Thấy mình thất bại, quan tổng trấn càng giận
dữ, ông chửi bới thậm tệ, và truyền cho lý hình đánh các ngài
cho tới khi nào các ông chịu bỏ đạo thì thôi. Quan tổng trấn mới
hành hạ các ông này hơn tuần lễ, nhưng vẫn vô ích.
Ngày kia ông truyền cho lý hình, buộc gông rất nặng vào cổ các
ông rồi kéo các ông qua thập giá. Các ông nhất định giơ chân lên
chứ không chịu đạp vào thập giá, thì quan lại truyền cho lính
đánh đập vào chân các ông đến nỗi các ông không còn sức để mà
giữ chân co lên cao được nữa, tức thì chân phải hạ thấp xuống và
đạp lên tượng thì quân lính reo hô thật to: "Ðã quá khóa rồi."
Quan án lúc đó truyền không hành khổ các ông nữa, và hỏi các
ông: "Sau cùng, các ngươi đã tuân lệnh nhà vua chưa?"
Vừa bị đánh đập đau đớn, vừa sợ hãi, hai ông Siêu và Dụ nói:
"Quan lớn dậy thế nào thì chúng tôi xin vâng."
Lậy tức hai ông được quan lớn tha và hứa hẹn đủ điều. Quan lại
hỏi ông Huy, ông Thể và ông Ðạt thì cả ba ông đều thưa:
"Quan lớn dậy việc gì khác chúng tôi xin vâng, còn bỏ đạo thì
chúng tôi không bỏ."
Quan lại truyền giam ba ông vào ngục thất và đeo xiềng và đóng
gông nặng hơn nữa.
Thấy hai bạn đã bỏ đạo, ông Huy, ông Thể và ông Ðạt càng ăn chay
đánh tội nhiều hơn nữa để xin ơn bền vững. Hai ngày sau khi hai
ông lính bỏ đạo, quan thượng nghĩ rằng ông cũng có thể làm cho
ba ông này bỏ đạo như hai ông kia. Ông liền truyền dẫn ba ông
vào dinh của ông rồi truyền cho ba ông phải bỏ đạo. Ba ông không
chịu. Quan thượng lúc đó cũng muốn biết các ông theo đạo và sống
đạo thế nào. Quan truyền cho ba ông đọc kinh trước mặt quan.
Quan đưa sách cho các ông và truyền cho các ông đọc. Bấy giờ ông
Huy, cầm lấy sách đạo mà quan trao cho, đọc theo như cung cách
quen đọc trong nhà thờ. Các quan cùng mọi người trong dinh, nín
lặng để nghe các ông đọc kinh. Nhân dịp này ông Huy lợi dụng để
giảng giải về lẽ đạo cho quan. Quan lắng nghe, nhưng khi giảng
tới đoạn không vừa ý quan. Quan liền truyền quân lính vả vào
miệng ông. Sau đó quan thượng lại truyền ba ông phải bỏ đạo. Ba
ông cương quyết từ chối. Quan thượng lại truyền quân lính khiêng
các ông qua tượng thánh giá như những lần trước. Lần này quan
truyền đánh dữ tợn hơn lần trước, đánh đến nỗi chân các ông đầy
máu me. Khi chân các ông chạm vào thánh giá, thì quân lính lại
hô lên: "Quá khóa rồi, quá khóa rồi."
Lúc đó ông Huy, đại diện hai ông kia kêu lên: "Quan lớn dậy
đánh đòn cùng kéo ép chúng tôi, có lẽ nào mà nói chúng tôi đã
quá khóa được ru?"
Tức thì quan thượng truyền nọc ba ông này ra đánh đòn. Ông bị
đánh 20 roi, ông bị đánh 30 roi. Riêng ông Huy thì bị đánh 40
roi ngay hôm đầu. Có chứng nhân nói rằng trong ba ngày liên tiếp
mỗi ông bị đánh chừng 130 trượng. Khi hỏi các người khác rằng
các đấng bị đánh nhiều trượng như thế thật không? Ai ai cũng
đồng ý như vậy.
Dịp khác các quan lấy nhiều lý lẽ mà khuyên ba ông bỏ đạo. Ông
Huy lại đại diện anh em thưa rằng: "Bẩm quan lớn, quan lớn
dậy chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa, thì chúng tôi sẽ theo đạo nào,
vì trong các đạo khác chẳng có đạo nào là đạo thật."
Quan thượng nghe thế liền nói: "Nếu ngươi bảo đạo chúng bay là
đạo thật, sao vua nghiêm cấm đạo ấy?"
Sau đó quan còn nói nhiều điều phạm thượng tới đạo Công Giáo.
Ông Huy lại có dịp cắt nghĩa lẽ đạo cho các quan, cùng bẻ các lý
lẽ mà quan đã nói. Thất bại về tranh biện với các đấng này, quan
thượng lại truyền đánh đập và phạt các ông.
Vào những buổi trưa hè nóng bức, các ông bị cạo trọc đầu, cổ
mang gông, chân tay xiềng xích, phơi nắng trước cổng dinh. Giữa
lúc nắng hè, các ông đau khổ phần vì nóng bức, phần vì ruồi
nhặng bậu vào để hút những vết máu mà tay chân các ông bị xiềng
xích không thể đuổi đi được. Giữa lúc đó các bạn hữu, các bạn
đồng đội theo lệnh quan thượng phải tới khuyên nhủ các ông bỏ
đạo. Hơn nữa, quan lại còn thưởng cho những tín hữu bỏ đạo, hay
thăng cấp. Ðiều này cũng làm cho các ngài dễ dàng bị lung lạc.
Có lần vợ ông Ðạt đến khóc lóc và dùng đủ mọi cách để chồng dẵm
lên thánh giá. Ông Ðạt đã đủ can đảm trách mắng vợ và cấm bà lần
sau không được đến gặp ông nữa. Các ông vẫn bị phơi nắng từ ngày
này sang ngày khác. Lần kia có một người tín hữu thấy ông Huy bị
phơi nắng khổ sở như vậy, liền lấy quạt che cho ông. Khi ông Huy
thấy cử chỉ của bà như vậy, ông cám ơn bà và nói với bà:
"Chúa để chúng tôi chịu sự khốn khó để đền tội chúng tôi. Tôi
xin bà đừng che nắng cho tôi."
Trong ngục tù, các đấng này còn ăn chay hãm mình bốn lần một
tuần: thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy. Dù đồ ăn trong ngục
đã ít oi, mà các đấng còn hy sinh để giúp cho những tù nhân
khác. Các ông cầu nguyện không ngừng và còn xin các bổn đạo khi
đến thăm các ngài: "Xin các ông các bà cầu cho chúng tôi để
chúng tôi bền vững, vì chúng tôi biết chúng tôi rất yếu đuối."
Quan thượng là người thông minh, học rộng thế mà lại tranh luận
thua những người học thức tầm thường này. Ðức Cha Marti nói:
"Về vấn đề này, tôi rất tiếc không đủ tài liệu chi tiết về những
lý luận ngu xuẩn và phi lý của quan trên về đạo giáo đối với ba
quân binh này. Tôi biết họ hỏi rất nhiều câu hỏi đặc biệt về bí
tích giải tội và hôn phối. Ông Huy đã trả lời rất đúng và khúc
chiết và dễ dàng đập tan những ý xảo quyệt của những người vô
đạo và thờ ngẫu tượng này. Ông thường nói về mục đích của Chúa
ban phép bí tích, sự thánh thiện của bí tích, sự thánh thiện của
nghi thức đi kèm với bí tích. Về bí tích giải tội, ông nói nếu
giải ban đêm là vì trong thời cấm đạo. Còn bình thường các cha
giải tội ban ngày."
Ðức Cha Marti còn kể tiếp ít nhất là một lần, quan thấy ông Huy
đối đáp khôn khéo, quan truyền đuổi ông ra ngoài, kẻo ông nghe
được những người quanh quan thượng khen ngợi hoặc ông lại ảnh
hưởng trên các người chung quanh quan.
Một ngày kia, quan lại hạch hỏi và tranh luận với ông Huy về quá
khứ đời tư của ông, để làm ông chán nản: "Giả dụ như có ai
từ trước tới nay sống đời đạo đức mà muốn chết vì đạo còn hiểu
được, chứ như ngươi trong quá khứ đã sống như người ngoại, có
hai vợ, ngươi sống dường như không phải là bổn đạo. Mà bây giờ
ngươi cứ giữ luật Kitô hữu, thì quả là điên khùng, không thể
chấp nhận được."
Về
vấn đề này, ông Huy đã trả lời quan với hết lòng khiêm nhường
rằng cho tới nay ông đã sống đời sống Kitô hữu như gương mù,
theo tính xác thịt, theo sự yếu đuối của ông. Nhưng Chúa nhân
lành vô cùng đã thương ông, cho ông biết thống hối, và bỏ vợ
hai. Ông đã bỏ mọi sự ngay cả mạng sống nữa chứ không bỏ đạo
Kitô giáo.
Không lay chuyển ông được, quan thượng lại dùng bạo lực. Ðức Cha
Marti kể lại rằng quan thượng còn dùng nhiều hình khổ đặc biệt
để lay chuyển ý chí sắt đá của ông Huy. Quan bắt lính kéo ông
qua thánh giá, và dùng roi đánh chân ông bắt chân ông chạm vào
thập giá. Khi chân ông đụng vào thập giá chúng lại reo lên: "Nó
đã quá khóa rồi, nó đã quá khóa rồi."
Ông Huy lại đáp lời: "Các ngươi dùng võ lực lôi thân xác ta,
các ngươi cố dùng sức lực lôi chân ta, nhưng các ông có dùng sức
mạnh để lung lay ý chí ta được không? Bao lâu ta không chịu, thì
dù có đánh đập các người cũng không đạt được mục đích đâu!"
Trong hồ sơ phong thánh của ông và hai vị có đoạn nói lên rằng
lòng tin và lý luận của các ông phần nào làm cho quan tổng trấn
Lê Văn Ðức phải cảm động. Quan nói: "Các ngươi làm cho ta
thấy tội nghiệp các ngươi quá. Ta không muốn hành hạ các ngươi
hơn nữa. Dù ta có hành hạ các ngươi thế nào các ngươi cũng không
bỏ đạo và bước qua thập giá. Tôn giáo các ngươi là tôn giáo gì
vậy? Hãy nói đi ta muốn nghe các ngươi nói."
Ông Huy đã cắt nghĩa cho quan mười điều răn Ðức Chúa Trời và bảy
phép bí tích. Quan lớn cảm động và ngạc nhiên về đạo lý của đạo
Công Giáo, cảm động quá, ông liền ca ngợi đạo Công Giáo, ông còn
xin lỗi các đấng và nói: "Tôi không biết tôi có còn ở đây
lâu nữa không. Nếu tôi trở về triều đình, mà các ông phải chịu
chết vì đạo các ông, xin hãy nhớ tới tôi và xin làm ơn đừng báo
thù tôi."
Ðến tháng chín, có tin đồn ông Huy và hai bạn bị xử tử. Các ông
rất vui mừng. Các ông nhắn tin cho vợ con lên tỉnh để vợ chồng,
cha con được giã từ nhau lần cuối. Lúc đó có Cha Năm, ông trùm
Ðích, và ông lý Mỹ cũng bị giam gần đấỵ Các bà cũng vào thăm các
ngài. Cha Năm bảo các bà rằng: "Hôm nay không biết ba ông
binh sống chết thế nào, song chắc các ông còn phải chịu nhiều sự
khốn khó nữa. Cụ gần đến ngày chịu chết rồi, dù cụ là thày cả
mặc lòng cũng nghĩ rằng mình khó mà có thể chịu đựng vì Chúa như
ba ông binh."
Cùng ngày hôm ấy, ba ông lại bị điệu vào hầu quan, ba ông lại bị
một trận đòn nên thân, đến nỗi trong mình chẳng có chỗ nào lành.
Tuy nhiên các ông vẫn không chịu quá khóa. Quan lại đành giam
các ông vào ngục thất. Khi trở lại ngục thất, Cha Năm hỏi các
ông: "Sao, hôm nay chúng con được trận hay thua?"
Cả
ba ông đều trả lời cha: "Chúng con chẳng chịu quá khóa lúc
nào, mà chỉ trông được chịu chết vì đạo, vì quan lớn đã dậy làm
án xử cho chúng con rồi."
Quả thật các quan lúc đó đã làm án xử tử ba ông, và đệ tấu nhà
vua. Vua Minh Mệnh, đọc tấu sớ của các quan, nhưng ông chẳng
muốn giết các ông này. Nhà vua liền ra chiếu chỉ truyền cho các
quan phải tìm hết cách để khuyên dụ các ông binh bỏ đạo: "Ta
lấy sự sống người ta làm trọng lắm, khi đã cắt đầu chẳng còn
phép nối lại được nữa, ta truyền cho các quan phải dùng mọi
cách, làm sao cho ba tên lính bỏ đạo Gia Tô, nhất là truyền đem
ra ngoài cửa thành cho dân chúng xỉ vả. Nếu khi sự ấy chẳng đủ,
thì đem ra ngoài mà giả cách chặt ngang lưng cho sợ hãi."
Các quan vâng theo chiếu chỉ của vua, đóng gông đem ông Huy và
ông Thể ra cửa Ðông, ông Ðạt ra cửa Nam. Ông Huy và ba ông đều
không sờn lòng.
Tháng 10 năm 1838 quan tổng trấn Trịnh Quang Khanh phục chức
tổng trấn Nam Ðịnh thay thế Lê Văn Ðức. Quan tổng trấn thấy ba
ông vẫn cứ vững lòng trung kiên thì cũng lại đệ án xin nhà vua
xử tử các ông. Tuy nhiên vua Minh Mệnh không cho giết, trái lại
còn truyền cho ông Trịnh Quang Khanh phải tìm đủ mọi cách khuyên
dụ. Chẳng những thế, vua còn quở trách ông Trịnh Quang Khanh:
"Mày không bảo được ba thằng lính phàm hèn, mà cai quản cả tỉnh
thế nào được."
Ba
ông bị điệu ra ngoài thành cho xỉ vả liên tiếp 21 ngày, rồi lại
bị giam vào ngục vừa bị hành hạ vừa bị dụ dỗ. Quan lại truyền
cho những người đã bỏ đạo trước phải vào để dụ dỗ ba ông. Nhưng
các ông không nghe còn dùng nhiều lý lẽ để làm cho họ phải xấu
hổ và ăn năn. Quan Trịnh Quang Khanh thấy đã hết kế, sau cùng
ông dùng một âm mưu rất độc. Quan bắt anh em họ hàng của ba ông,
cùng lý dịch ba xã Hạ Linh, Phú Nhai, Kiên Trung. Khi các người
tới trước mặt quan thượng, ông truyền cho họ phải làm sao cho ba
ông quá khóa, nếu không làm nổi thì tất cả đều phải chịu chết
với cả ba ông. Anh em họ hàng cùng huynh thứ trong xã rất sợ
hãi, nên cố sức để dụ dỗ ba ông. Khỏi mấy ngày quan thượng đòi
cả ba ông vào để xem các ông đã sẵn lòng bỏ đạo chưa. Nhưng ba
ông cứ một mực vững lòng. Tức thì quan truyền cho thân nhân,
huynh thứ trong ba xã, và các lính đồng đội phải vào để khuyên
nhủ ba ông. Nhưng dù các người này cám dỗ thế nào các ông vẫn
một lòng trung kiên. Quan Trịnh Quang Khanh tức giận lắm, ông
chửi các lý dịch cùng huynh thứ trong xã: "Tại chúng mày, mà
ba thằng này bất trị, vì chẳng dậy bảo chúng nó vâng chịu luật
phép nhà nước cho sớm, nên chúng mày phải chịu tội với chúng
nó."
Nghe quan thượng nói vậy, huynh thứ và lý dịch rất sợ hãi, xin
khất quan một tháng để khuyên bảo các ông này. Các ông cũng
không quên xin quan thượng đừng giam các ông này chung với nhau,
xin giam mỗi người một nơi để dễ dàng khuyên bảo. Quan thượng
ưng cho khất một tháng, và giam ba ông riêng biệt.
Hết hạn một tháng, quan nghĩ chắc ba ông đã mềm lòng có thể chịu
bỏ đạo, quan liền truyền điệu các ông đến. Song các ông vẫn
không chịu quá khóa. Bấy giờ quan truyền nọc đánh một người
huynh thứ xã Kiên Trung. Ông Thể thấy người huynh thứ bản xã bị
nọc đánh đòn thì thương hại, ông thưa với quan rằng: "Lạy quan
lớn, xin quan lớn tha cho, quan lớn dậy thế nào con xin vâng."
Quan bảo ông quá khóa, ông đành vâng theo. Lúc đó các quan thấy
một tên lính đã thua trận thì vỗ tay reo mừng, liền tháo gông bẻ
xiềng cho ông Thể. Sau đó mọi người lại xúi giục ông Huy và ông
Ðạt bắt chước ông Thể mà chịu quá khóa. Một quan nói với ông
Ðạt: "Mày cứ bắt chước tên Thể mà bước qua thập tự, khi
trước cả ba tên đều hợp lực bất kháng, bây giờ tên Thể đã vâng
lời vua, sao mày còn cứng cổ."
Bấy giờ ông Ðạt cũng chiều lòng các quan mà bước qua thập tự.
Phần ông Huy, dù hai bạn đã quá khóa, ông vẫn không sờn lòng.
Các quan vẫn không thất vọng cố tìm cách dụ dỗ ông Huy bỏ đạo.
Ðêm đó, quan cho người vào phòng ông Huy dụ dỗ ông rằng: "Chú
phải vâng lời vua như hai ông kia, thì chẳng ai cười chê chú
được. Vì chú đã chịu khó vững vàng hết sức rồi. Vua chẳng muốn
giết chú, mà cũng chẳng muốn tha chú nếu chú không quá khóa, nếu
chú bước qua một lần mà thôi thì khỏi mọi sự rầy rà này."
Sau cùng, ông Huy cũng chối đạo như hai ông bạn kia. Sau đó,
quan phát cho mỗi ông 10 quan tiền rồi thả các ông về nhà.
Dòng dã tám tháng trời các ông chịu cực hình và khuyên dụ bỏ đạo
mà các ông vẫn trung kiên, nên ai cũng cảm phục. Bây giờ nghe
tin các ông chối đạo, rất nhiều người không tin. Có người cho
rằng các ông bị bùa ngải làm mê loạn nên các ông mới chối đạo.
Câu chuyện này vẫn còn trong vòng nghi ngờ, nhiều người vẫn
không tin các ông đã chối đạo, nhất là sau này các ông lại xưng
đạo và chịu chết vì đạo. Có những người biết chuyện thì cố tình
tạo nhiều ý khác nhau để che đậy sự nhút nhát của ba ông hồi ấy.
Trong các thư báo cáo về Manila, và Âu Châu thì quả quyết các
ông tự ý chối đạo chứ không có ai ép uổng các ông. Chính ba ông
binh cũng tự thú chuyện các ông chối đạo là sự thật. Ðức Cha
Marti, đã điều tra rất nhiều người và kết luận chuyện các ông bị
bùa ngải là vô căn cớ.
Từ
khi ba ông bỏ đạo, thì lương tâm các ông cắn rứt vì đã chối đạo
và gương xấu mình đã làm. Ba ông đã bàn bạc với nhau cũng như
hỏi người khác xem phải làm thế nào để trở lại cùng Chúa. Mấy
ngày sau, ông Huy cũng như hai ông binh kia đi xưng tội. Bởi ơn
Chúa thúc đẩy, cả ba ông đều muốn lên tỉnh để xưng đạo. Lên tỉnh
Nam Ðịnh, cả ba ông vào dinh quan thượng. Ba ông lạy quan
thượng, rồi ông Huy đại diện anh em để thưa với quan: "Bẩm quan
lớn, đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng con thờ là đấng cao
cả phép tắc vô cùng, bởi chúng con đã quá dại mà chịu quá khóa,
mất nghĩa cùng Chúa chúng con, nay chúng con xin giả tiền lại
cho vua và quan lớn, cùng xin giữ đạo Thiên Chúa cho thật lòng."
Trịnh Quang Khanh nghe những lời ấy thì tức giận chửi rủa các
ông thậm tệ, sau đó truyền giam các ông trong ngục rồi truyền
cho lính hàng đội phải dụ dỗ ba ông như trước, tuy nhiên ba ông
vẫn một lòng trung kiên. Quan Trịnh Quang Khanh không biết phải
làm thế nào, vì trước đây ông đã tâu về triều đình rằng ba ông
đã quá khóa, bây giờ nếu xử án ba ông thì không biết ăn nói sao
với triều đình. Quan liền truyền cho lý dịch ba xã đến để nhận
tiền thay vì các ông, rồi đuổi ba ông về làng không cho đến làm
phiền các quan nữa. Các ông buồn rầu ra về, tuy nhiên lòng các
ông vẫn không yên trí. Các ông chẳng ao ước sự gì thế gian mà
chỉ ao ước được chết vì đạo Chúa. Các ông càng gia tăng việc cầu
nguyện, ăn chay hãm mình và làm việc phúc đức để mong được chết
vì đạo.
Quyết định của quan tổng trấn không làm cho các ông hài lòng,
các ông lại bàn với nhau: "Nếu quan thượng không cho chúng
ta chết vì đạo, thì chúng ta sẽ vào kinh tâu xin nhà vua cho
chúng ta chết vì đạo, để sửa lại gương mù gương xấu chúng ta đã
làm."
Ông Huy lại bảo các bạn: "Nếu các ông không đi thì tôi đi
một mình."
Lúc đó ông Thể cũng nói thêm vào: "Nếu ông đi, tôi cũng đi
với ông."
Ðể
đi tới quyết định trên các ông đã bàn hỏi với Cha Tuyên. Cha
Tuyên hỏi cặn kẽ lý do các ông bỏ đạo, các ông đáp: "Quả thực
trong lòng chúng con bỏ đạo chỉ vì thương cha mẹ, anh em, và
huynh thứ trong làng. Chúng con tin rằng nếu chúng con không
bước qua thập giá, thì quan thượng cũng bắt tất cả phải bước qua
thập giá. Nếu họ vì sợ mà ưng thuận, chúng con lại không phải
chịu trách nhiệm về tội của họ sao? Chúng con đã sai lầm, và
chúng con đã bước qua thập giá. Sau khi quá khóa, chúng con cảm
thấy hối hận nên đã xưng đạo lại trước mặt quan tổng trấn. Nhưng
chỉ có quan tỉnh biết, còn triều đình và nhà vua thì không hay
biết gì cả. Chính vì thế chúng con muốn đến gặp nhà vua, và xưng
đạo công khai trước mặt người. Như thế mọi người sẽ biết chúng
con bước qua thập giá vì sự yếu đuối của chúng con, chứ không
phải vì chúng con muốn nghe lời nhà vua mà chối bỏ đạo."
Sau đó Cha Tuyên viết thư hỏi ý kiến Ðức Cha Marti nói rõ lý do
các ông đã bỏ đạo và ý các ông muốn xưng đạo lại tại kinh đô.
Trong thư, Cha Tuyên cũng kể cho Ðức Cha Marti biết trong thời
gian các ông đang cư ngụ tại nhà người, người cũng được thư của
Cha Jimeno (sau này làm giám mục), trong đó có đoạn nói: "Thày
vui mừng lắm vì ba ông binh lính đã xưng đạo tại tỉnh, lại nghe
cả ba ông toan vào đền vua để xưng đạo cách rõ rệt hơn nữa. Ðược
như vậy, thày rất vui mừng, và tin rằng Ðức Chúa Trời sẽ giúp
cùng ban sức cho họ được thắng trận, xứng đáng lãnh phần thưởng
vô cùng mà Ðức Chúa Trời đã dành cho những kẻ chịu khổ vì đạo."
Cha Tuyên đọc thư này cho cả ba ông nghe và họ nhất định vào đền
vua. Ông Huy còn xin sao bản thư đức cha để sau này xem lại. Sau
đó ba ông bàn với nhau phải vào kinh như thế nào.
Vấn đề vào kinh cùng một lúc thật là khó, vì chẳng có bao giờ cả
ba ông được nghỉ phép. Lúc đó ông Ðạt nói: "Tháng sau, hai
ông được nghỉ ở nhà, mà tôi phải ứng vụ tại tỉnh, hai ông cứ đi,
tôi ở lại, nhưng anh em thế nào thì tôi thế ấy. Xin anh em cho
tên tôi vào đơn, nếu anh em chịu sự khổ nào trong kinh thì tôi
cũng mong được chịu khổ như vậy ngoài này."
Cha Tuyên thấy ba ông nhất định đi chịu chết vì đạo thì người
khuyên bảo các ông đủ điều và dậy các ông cậy trông ơn Chúa, ăn
ở khiêm nhường. Sau khi nghe cha già Tuyên khuyên bảo, ông Huy
và ông Thể về nhà từ giã vợ con anh em thân thuộc lần cuối cùng
và xin mọi người cầu nguyện cho mình. Hai ông cũng đi xưng tội
chịu lễ để dọn mình còn ông Ðạt lên tỉnh thi hành công vụ.
Ðầu tháng 3 năm 1839, tức năm Minh Mệnh thứ 20, hai ông vào
kinh. Con cả ông Huy cũng theo cha vào kinh để xem công việc thế
nào. Hết 20 ngày mới vào tới kinh đô Huế. Các ông trọ tại nhà
một người bổn đạo tên là bà Tam. Ở đây hơn một tháng, hai ông ăn
chay cầu nguyện, dọn mình để vào kinh xin chịu tử vì đạo. Các
ông đệ đơn và kêu tòa tam pháp. Quan tòa nhận đơn rồi chẳng tra
hỏi gì hết. Chờ đợi ít lâu, mà chẳng ai hỏi gì tới việc xưng đạo
của hai ông, hai ông lại viết đơn khác gửi tới quan tòa: "Chúng
tôi quá khóa tại tỉnh Nam Ðịnh, vì quan Trịnh Quang Khanh ép
chúng tôi quá, chẳng phải vì lòng thật muốn bỏ đạo."
Lần đó các quan tòa cũng chẳng xét xử đơn xin của các ông. Ðợi
đến một ngày kia, khi vua Minh Mệnh ra ngoài chơi, hai ông sấp
mình xuống bên lề đường, mà đệ đơn trên đầu. Một quan lớn cầm
đơn đó xem, rồi trình vua. Khi vua Minh Mệnh biết việc liền
truyền giam các ông vào ngục, rồi truyền các quan thuộc hình bộ,
lễ bộ, và binh bộ hợp lực tra xét và làm mọi cách cho hai ông bỏ
đạo. Tuy nhiên dù làm thế nào hai ông vẫn trung kiên. Lúc đó
quan Lê Văn Ðức, trước kia là tổng đốc Nam Ðịnh, đã biết các ông
gan dạ thế nào nên nói với các ông rằng: "Ðánh đòn chúng bay
chỉ mỏi tay mà thôi."
Các quan tòa thấy hai ông can đảm như vậy thì hỏi về ông Ðạt, vì
trong đơn có nói tới ông ấy. Hai ông liền thưa với quan:
"Anh Ðạt cũng chẳng chịu quá khóa, mà vì mắc trở việc tại tỉnh
Nam Ðịnh, nên chẳng đi với chúng tôi được, song anh ấy cũng hợp
một ý với chúng tôi. Anh ấy còn dặn rằng, anh em thế nào thì tôi
thế ấy."
Các quan trình tâu nhà vua mọi việc, nhà vua lấy làm ngạc nhiên
lắm, tuy nhiên vua vẫn hy vọng có thể thay lòng đổi dạ các ông,
nên vua lại truyền ba quan lớn hợp lực làm thế nào cho hai ông
quá khóa. Nhưng cũng vô ích.
Nhà vua còn truyền các quan đem ra 10 nén vàng, một tượng thánh
giá, và một thanh gươm rồi nói: "Mặc ý các ngươi chọn. Nếu
bước qua thập giá thì sẽ được thưởng 10 nén vàng, còn nếu không
sẽ bị thanh gươm chặt ngang lưng làm hai rồi bỏ xác xuống biển."
Tức thì hai ông xin chịu chết.
Các quan lại trình tâu vua tất cả sự kiện, vua Minh Mệnh rất tức
giận, truyền đem hai tờ giấy cho các ông ký tên vào. Một tờ thì
chứa đầy những lời xỉ vả mạ báng Chúa và đạo Gia Tô, còn tờ kia
là án các ông phải chết như thế nào. Hai ông không chịu ký vào
bản thứ nhất, trái lại chấp nhận bị trảm quyết. Lúc đó quan đọc
án của nhà vua như sau: "Minh Mệnh nhị thập niên, tháng 5
ngày mồng một, nội các thần Lê Khanh Trình, thần Lâm Ruy Nghĩa
vâng lời vua truyền từ tờ các quan tòa tam pháp, thì hai tên
lính tỉnh Nam Ðịnh, tên là Phạm Viết Huy và Bùi Ðức Thể cùng
khai rằng chúng vốn theo đạo Gia Tô chẳng bỏ, mà năm ngoái có
bước qua thập tự tại bản tỉnh, bởi quan tổng đốc tỉnh ấy bức
hiếp chứ trong lòng chẳng bao giờ có ý bỏ đạo, nên bây giờ xin
cứ giữ đạo như khi trước. Quan tòa tam pháp đã khuyên bảo hai ba
lần, song hai tên phạm này cứ một mực chỉ xin chịu chết, cùng
quyết chẳng chừa cải, thật là hai tên dại dột mê hoặc. Khi trước
ta đã làm án chết cho chúng nó, song ta còn thương hại chẳng
muốn giết, chẳng ngờ là lũ phạm ấy đã ra mê cuồng chẳng còn biết
lẽ phải, ta đã mở lối cho chúng nó ăn năn, nếu còn có trí khôn
thì phải biết mình đã sai lầm mà cải ác hoàn lương, song hai tên
phạm này cố chấp theo Gia Tô tà đạo, dám bỏ việc lính mà vào
kinh khống đơn, chúng nó thật kiêu ngạo, đáng khinh dể, đáng
ghét, không thể để cho sống được nữa. Nên hai tên phạm là Phạm
Viết Huy và Bùi Ðức Thể, phải kết án tử, giao cho lính đem ra
cửa biển, lấy rìu lớn chặt ngang lưng, rồi bỏ xác xuống biển để
cho ai nấy biết rõ điều răn cấm. Còn một tên phạm nữa là Ðịnh
Ðạt cũng can án này. Nó có bỏ đạo thật hay không thì phải tra
xét kỹ càng và tâu cho minh bạch."
Ngày 2 tháng 5 năm 1839 ta, cũng là 12 tháng 6 năm 1839 dương
lịch, ông Huy và ông Thể bị điệu ra cửa bể là cửa Thuận để chịu
chết. Trên đường đi đến pháp trường hai ông vui vẻ chào hỏi mọi
người khiến dân chúng rất ngạc nhiên. Ðến cửa biển, quan bắt hai
ông xuống thuyền rồi chèo ra khỏi đất liền. Lúc này quan còn
khuyên hai ông quá khóa vì vẫn còn kịp, nhưng hai ông nhất định
không bỏ đạo.Quan tryền tháo gông, rồi trói hai ông vào cột
chèo.Hai ông đọc kinh phó linh hồn. Lý hình giơ gươm lên, chặt
ngang lưng hai ông như đã ghi trong án. Sau đó chúng chặt đầu
rồi bổ làm tư và liệng xác hai ông xuống biển.
Ðược tin hai ông Thể và Huy bị xử tử, ông Ðạt ở nhà thu xếp công
việc của nhà. Ông đọc kinh nguyện ngắm để dọn mình chết. Mấy
ngày sau, lính hàng đội từ tỉnh xuống báo với ông Ðạt rằng:
"Quan lãnh binh và tỉnh sai tôi xuống báo cho anh biết đã có chỉ
bộ ra truyền bắt và xử tử anh."
Khi ông Ðạt nghe tin ấy thì vui mừng lắm. Lúc đó vào quãng cuối
tháng 6 năm 1839. Ông Ðạt liền đi báo cho anh em và từ giã mọi
người. Ông cũng xin mọi người cầu nguyện cho ông. Lúc đó, vợ ông
muốn khuyên chồng bỏ ý định chết vì đạo. Bà khóc lóc than vãn,
rồi dẫn con gái đến xin ông: "Ông bỏ tôi cùng con bé này
sao?"
Ông Ðạt rất cảm động, nhưng ông nói với bà nếu ông quý bà và con
gái hơn Chúa thì chẳng xứng đáng với Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa
sẽ lo liệu cho bà và con gái. Sau cùng ông bảo vợ: "Một chốc nữa
bà đem con bé sang nhà Nhiêu Quang cho tôi gặp nó một chút nữa."
Rồi ông đi chịu lễ lần sau hết. Khi chịu lễ cùng cám ơn, ông yên
ủi vợ con, cùng giã từ anh em, rồi theo lính ra đình làng. Tại
đình làng, quan viên làng và nhiều người dân đã tụ họp đông đủ
sẵn sàng để từ giã ông. Ông lạy quan viên, xin các ông ấy cầu
nguyện cho mình. Lúc bấy giờ cũng có người nói rằng: "Anh Ðạt bỏ
vợ con, bỏ quê quán."
Ông thưa lại rằng: "Vợ con và quê nhà tôi để mặc thánh ý Ðức
Chúa Trời, tôi xin làng thương tôi cùng vợ con tôi."
Trên đường đi về tỉnh, ông Ðạt chỉ đọc kinh lần hạt chuẩn bị
chịu chết. Phần bà vợ ông, vẫn theo ông tới Nam Ðịnh, vừa đi vừa
khóc. Ông đuổi bà về và nói với bà: "Nếu bà đến đây mà cứ
khóc thì đừng đến thăm tôi nữa."
Tại tỉnh, quan lớn bảo ông Ðạt rằng: "Thằng Huy, thằng Thể
đã phải bổ làm tư, rồi bỏ xuống bể cho tôm cá ăn, mày có quá
khóa không?"
Ông Ðạt đáp lại: "Hai anh con đã được phúc trọng, xin quan
lớn bổ con làm tám. Còn sự quá khóa thì con không chịu."
Quan thượng nghe xong liền truyền đóng gông, rồi giam ông trong
ngục. Ðến ngày 18 tháng 7 năm 1839, có lệnh vua truyền xử giảo
ông Ðạt. Quan lại khuyên nhủ lần nữa nhưng ông không chịu. Thế
là quan truyền viết thẻ: "Tên Ðinh Ðạt thuộc Xuân Tràng phủ,
Giao Thủy huyện, Phú Nhai xã, là tên phạm, cố chấp theo Gia Tô
tả đạo, nay cũng chẳng chịu bỏ đạo ấy, bất tuân quốc pháp, lập
tức đem đi xử giảo."
Viết thẻ xong quan truyền giao ông Ðạt cho quan giám sát đem đi
xử giảo. Trên đường đi ông chỉ đọc kinh cầu nguyện. Khi đến nơi
xử, đã sẵn có cái chiếu cạp ở đấy, ông Ðạt quỳ trên chiếu vẫn cứ
tiếp tục đọc kinh mãi. Một lúc, quan truyền tháo gông, bắt ông
nằm xuống chiếu, rồi quân lính buộc dây vào cổ ông. Khi đã sẵn
sàng, quan giám sát ra hiệu lệnh. Lý hình kéo dây cho đến khi
ông tắt thở.
Làng Phú Nhai lấy xác ông và táng trọng thể tại nhà anh cả ông
Ðạt. Sau hài cốt của ngài được táng tại nhà thờ Phú Nhai.
Augustinô Phan Viết Huy cùng Nicôla Bùi Ðức Thể và Ðaminh Ðinh
Ðạt được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII phong Chân Phước ngày
27-5-1900. Ðến ngày 19-6-1988 các Ngài được Ðức Thánh Cha Gioan
Phaolô II tôn vinh lên bậc Hiển Thánh.
(St)
Trường thi tử đạo
Thánh Ðinh Ðạt sinh năm Quý Hợi (1803)
Tại Phú Nhai (Nam Ðinh) quân đội nhà vua
Kiên gan chẳng phải tay vừa
Hơn năm trăm lính gạn lừa còn ba
Là trai tráng quốc gia phục vụ
Tự nguyện vào đội ngũ quân nhân
Mười hai năm chốn hải tần
Ðóng quân trấn giữ mười phân vẹn mười
Ðinh Ðạt vốn là người ngoan đạo
Ðược gia đình đào tạo còn thơ
Sáng chiều kinh nguyện phụng thờ
Tôn sùng thánh giá đón chờ đời sau
Trong quân ngũ rũ nhau kinh kệ
Chúa Nhật cùng xem lễ cho đông
Ðất bằng bỗng nổi cơn dông
Ban lệnh bỏ đạo nếu không, ở tù
Thánh Ðinh Ðạt mùa thu năm ấy
Chúa soi đường giữ lấy đức tin
Quyết tâm theo Chúa hướng nhìn
Dù bao tra tấn bạc nghìn cũng không
Quan Tổng trấn cố công dụ dỗ
Phần ông thì cứng cổ không nghe
Hết vàng bạc đến răn đe
Nhờ ơn Ðức Mẹ chở che hộ phù
Quan bày kế công phu ngoan cố
Bắt người thân một số vào khuyên
Sao cho bỏ đạo mới yên
Bằng không sẽ chịu oan khiên khó lường
Ông Ðinh Ðạt thấy thương tình quá
Chỉ vì ta tội vạ đến người
Nói rằng thôi thế thì thôi
Cũng liều nghe họ bạc thời lãnh ngay
Chúa thương ông mấy ngày sau đó
Tự hổ ngươi nhăn nhó xót xa
Chúa nhân từ sinh ra ta
Mà ta bỏ Chúa thực là hổ ngươi
Trên thập giá ơn Người cứu độ
Vì muốn ta giác ngộ trầm luân
Giờ đây ta quyết liều thân
Làm đơn chịu chết bạc khuân trả ngài
Vợ ông cũng rỉ tai đừng chết
Ông nói rằng rất tiếc bà ơi
Tôi phải vâng lệnh Chúa Trời
Có làm chi cái cuộc đời chóng qua
Phúc tử đạo xảy ra Kỷ Hợi (1839)
Là niềm người mong đợi từ lâu
Cộng đồng dân Chúa nguyện cầu
Canh Tý (1900) phong thánh, ngài chầu Thiên nhan.
Tại Phú Nhai (Nam Ðinh) quân đội nhà vua
Kiên gan chẳng phải tay vừa
Hơn năm trăm lính gạn lừa còn ba
Là trai tráng quốc gia phục vụ
Tự nguyện vào đội ngũ quân nhân
Mười hai năm chốn hải tần
Ðóng quân trấn giữ mười phân vẹn mười
Ðinh Ðạt vốn là người ngoan đạo
Ðược gia đình đào tạo còn thơ
Sáng chiều kinh nguyện phụng thờ
Tôn sùng thánh giá đón chờ đời sau
Trong quân ngũ rũ nhau kinh kệ
Chúa Nhật cùng xem lễ cho đông
Ðất bằng bỗng nổi cơn dông
Ban lệnh bỏ đạo nếu không, ở tù
Thánh Ðinh Ðạt mùa thu năm ấy
Chúa soi đường giữ lấy đức tin
Quyết tâm theo Chúa hướng nhìn
Dù bao tra tấn bạc nghìn cũng không
Quan Tổng trấn cố công dụ dỗ
Phần ông thì cứng cổ không nghe
Hết vàng bạc đến răn đe
Nhờ ơn Ðức Mẹ chở che hộ phù
Quan bày kế công phu ngoan cố
Bắt người thân một số vào khuyên
Sao cho bỏ đạo mới yên
Bằng không sẽ chịu oan khiên khó lường
Ông Ðinh Ðạt thấy thương tình quá
Chỉ vì ta tội vạ đến người
Nói rằng thôi thế thì thôi
Cũng liều nghe họ bạc thời lãnh ngay
Chúa thương ông mấy ngày sau đó
Tự hổ ngươi nhăn nhó xót xa
Chúa nhân từ sinh ra ta
Mà ta bỏ Chúa thực là hổ ngươi
Trên thập giá ơn Người cứu độ
Vì muốn ta giác ngộ trầm luân
Giờ đây ta quyết liều thân
Làm đơn chịu chết bạc khuân trả ngài
Vợ ông cũng rỉ tai đừng chết
Ông nói rằng rất tiếc bà ơi
Tôi phải vâng lệnh Chúa Trời
Có làm chi cái cuộc đời chóng qua
Phúc tử đạo xảy ra Kỷ Hợi (1839)
Là niềm người mong đợi từ lâu
Cộng đồng dân Chúa nguyện cầu
Canh Tý (1900) phong thánh, ngài chầu Thiên nhan.
Ðaminh Ðạt sinh năm Quý Hợi (1803)
Năm Ất Mão (1795) rửa tội Viết Huy
Còn Bùi Ðức Thể ấy thì
Sinh năm Nhâm Tý (1792) khoái đi lính mà
Từ Lạc Thuỷ trẩy ra Nam Ðịnh
Ba trai làng nhất định tòng quân
Cũng người Công giáo chuyên cần
Khi vào quân ngũ ở gần bên nhau
Ông Tổng Ðốc nghe đâu bị triệu
Về kinh đô báo hiệu Quang Khanh
Tội ông tiêu cực thi hành
Lệnh Vua khiển trách đích danh hạ thần
Ðể chuộc tội ông cần thanh lọc
Trước hàng quân, ông đọc lệnh Vua
Mở ngay chiến dịch quét lùa
Lùng bắt đạo trưởng cho Vua vừa lòng
Tính kế hoạch ngoài trong chuẩn bị
Mời quân nhân tu sĩ tiệc tùng
Binh sĩ Công giáo tập trung
Hoàn thành thanh lọc truy lùng vào dinh
Trong bữa tiệc điều binh ông hứa
Ban thưởng khen những đứa trung thành
Với Hoàng Thượng được nêu danh
Buông lời dọa nạt chấp hành phải tuân
Ngày hôm ấy trọn phần Công giáo
Khoảng năm trăm theo đạo Kitô
Mời vào dinh xét ý đồ
Cho xem hình phạt bước vô thấy liền
Ðầy dụng cụ xích xiềng kìm kẹp
Ðây kỷ cương sắt thép nhà vua
Quyết ra tay chẳng chịu thua
Ai không quá khoá là mua nhục hình
Quá buồn tủi thực tình đau khổ
Gần năm trăm xấu hổ bước qua
Số còn lại thật ít mà
Chỉ năm người dám đứng ra chối từ
Là trụ cột bây giờ cương quyết
Là tôi trung tâm huyết tới cùng
Nhà Vua tăng viện trong vùng
Sai thêm Tướng Ðức binh hùng Thành Nam
Quang Khanh bị cách làm không đạt
Lê Văn Ðức đề bạt lên thay
Ðức Cha Minh xử tử ngay
Và luôn Thầy Chiểu một ngày đầu rơi
Năm chứng nhân đến nơi cho khiếp
Nhưng cả năm đặc biệt hân hoan
Quan tức giận tống nhà giam
Tuần sau tướng Ðức lệnh ban giải tòa
Ông ngon ngọt nói ra dụ dỗ
Không thành công thịnh nộ kéo khiêng
Lê lên tượng Chúa linh thiêng
Roi đòn túi bụi liên miên từng người
Gần tới đích hai người bỏ cuộc
Còn lại ba gân guốc gan lỳ
Một lòng một dạ khắc ghi
Ông Huy, Thể, Ðạt quyết đi tới cùng
Ông Huy trước ung dung vợ nhỏ
Nay trốn về quyết bỏ trình Cha
Xin ngài ban phép giải hoà
Làm xong ông lại xin ra ngồi tù
Ông tướng Ðức doạ hù quỷ kế
Cứ mỗi ngày thân thể trăm roi
Tướng khuyên bỏ đạo đi coi
Ông Huy đạo Chúa sáng soi trần đời
Quan thét lớn Vua người nghiêm cấm
Không đổi thay thưa bẩm lôi thôi
Ông Huy chủng viện học rồi
Chứng minh mạch lạc liên hồi tỏ thông
Quan nhận thấy là ông đuối lý
Cho đóng gông phơi kỹ nắng mưa
Ðông, Nam hai cửa cho đưa
Ba tuần ở đó xin thưa nhục hình
Dọa nạt vợ, gia đình con cái
Cùng thân nhân trai gái bạn bè
Ba ông nhất mực chẳng nghe
Tập trung kỳ mục răn đe đánh đòn
Ngay trước mặt người con trung tín
Bô lão làng thâm tím vì mình
Ðã ngã lòng phạm Thánh Linh
Cả ba bỏ cuộc triều đình mừng reo
Rồi sau đó lòng đau áy náy
Cả ba ông hết thảy hồi tâm
Tìm Cha xưng tội lỗi lầm
Tới dinh Thống Ðốc quyết tâm trình bày
Bẩm quan lớn nơi đây nguyện vọng
Ðạo Chúa Trời tôn trọng trên đời
Chúng tôi quá khóa nghe lời
Mang tiền trả lại đạo Trời tuyên xưng
Quan nổi nóng bừng bừng mắng chửi
Ðuổi khỏi dinh cho gửi trận đòn
Về nhà sống với vợ con
Số tiền hương chức trao tròn thưởng công
Trở về nhà, ba ông cầu nguyện
Vào kinh đô thực hiện đức tin
Hai Cha hội ý kiếm tìm
Lãnh xin hướng dẫn Trái Tim nhân lành
Cha Chính Lân nổi danh đồng ý
Ba anh em quyết chí tâu Vua
Hai anh Huy, Thể đơn đưa
Anh Ðạt công tác nên chưa lên đàng
Cha Tuyên nhắc bảo ban trông cậy
Xin Chúa ban, chớ cậy sức mình
Hai mươi ngày mới tới kinh
Tới Tòa Tam Pháp Triều Ðình sớ tâu
Quan gìm lại có đâu dâng sớ
Tòa Tam Pháp vô cớ làm ngơ
Hai ông dài cổ đợi chờ
Thấy Vua ngự giá tay giơ tấu trình
Thật táo bạo thân mình đồ lính
Chặn kiệu rồng cung kính dâng Vua
Ngài đọc xong truyền bắt lùa
Nhốt ngay vô ngục chẳng thưa bẩm gì
Tâu Ðức Vua quan thì ép buộc (Nội dung của Sớ )
Các chúng thần đạo thuộc Giatô
Tôn thờ Thiên Chúa tung hô
Tấn tra miễn cưỡng, buộc vô tuân hành
Ông tướng Ðức Nam Thành về Huế
Phan Viết Huy, Bùi Thể gan lỳ
Tại sao Ðinh Ðạt chẳng đi
Vì anh bận việc cũng thì đồng tâm
Vua truyền lệnh hai mâm lựa chọn
Nếu bỏ Chúa, lấy trọn mười vàng
Bên kia cây kiếm sáng choang
Hai ông bình tĩnh bước sang khổ hình
Rồi sau đó quân binh án lệnh
Ðưa hai anh ra tận Thuận An
Phanh thây xẻ xác dã man
Ném luôn xuống biển cho đàn cá ăn
Còn anh Ðạt khó khăn Bảy Mẫu
Ông quỳ trên chiếu khấn nguyện cầu
Nằm gục thầm thĩ hồi lâu
Lý hình tròng cổ hai đầu xiết giây
Phúc tử đạo nơi đây phần thưởng
Cả ba ông được hưởng phúc vinh
Thi hài an táng quê mình
Về sau cải táng linh đình Phú Nhai
Năm tử đạo ba ngài Kỷ Hợi (1839)
Bỏ thế gian hưởng lợi Nước Trời
Lệnh phong thánh được ban ra
Mùa thu Canh Tý (1900) quả là xứng danh
Lời bất hủ: Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh Nam Ðịnh nói với ông Ðạt: "Hai bạn của ngươi (tức thánh Thể và Huy) vì cuồng dại không chịu bỏ đạo tà, nên đã bị chém làm tư quăng xuống biển. Còn ngươi, nếu khôn thì chối bỏ thứ đạo đó đi để về với vợ con". Ông Ðạt thẳng thắn đáp: "Tôi đã chịu nhiều cực hình vì đức tin, nay tôi sẵn sàng chịu thêm nhiều hình khổ khác nữa. Hai bạn tôi đã được phúc trọng, quan cứ chém tôi làm tám cũng được".