Đa Minh Toại sinh năm 1812 và Đa Minh Huyên sinh năm 1817. Hai ông là giáo hữu họ đạo Đông Thành, tỉnh Thanh Bình. Cả hai đã có gia đình, là những gia trưởng đạo đức sốt sắng, luôn nêu gương mến Chúa yêu người. Hai ông sống bằng nghề đánh cá, hằng ngày chày lưới trên sông Nhị Bình, ở gấn cửa Ba Lạt. Tánh tình đơn sơ, lương thiện, hai ông đều được các bạn đồng nghiệp và mọi người thương yêu khen ngợi.
Tháng 8 năm 1861, vua Tự Đức bắt đạo gắt gao. Nhà vua ra chiếu chỉ Phân Sáp, nhằm tận diệt người theo đạo Công Giáo. Theo chiếu chỉ này, quân lính và người ngoại giáo được phép vào các làng Công Giáo tịch thu tài sản và bắt các giáo hưũ đem nộp cho quan, để khắc hai chử Tả Đạo lên má.
Lúc đó quân lính và người ngoại giáo kéo nhau vào họ đạo Đông Thành. Sau khi vơ vét tài sản của người Công Giáo, họ bắt nhiều người đem nộp cho quan huyện, trong số đó có ông Đa Minh Toại và Đa Minh Huyên. Ông Toại vì bệnh đi lại không nổi, họ bảo ông nộp tiền chuộc, họ sẽ thả ông về gia đình. Nhưng ông xin đi cùng họ đến quan huyện vì ông muốn cùng các đồng đạo tuyên xưng danh Chúa trước mặt mọi người, và hy sinh mạng sống làm chứng cho đạo.
Quân lính dẫn hai ông đến huyện Quỳnh Côi, và giam vào ngục, đợi ngày xét xử. Suốt chín tháng bị giam trong ngục, hai ông chịu đói, khát, xiềng xích, nhưng không bao giờ than van, lúc nào cũng vui vẻ sẵn sàng chịu gian lao khốn khó, trước là để lập công nghiệp, sau là để nêu gương can đảm hy sinh cho các bạn đồng đạo trong ngục. Chẳng những thế, hai ông còn thường xuyên an ủi, khích lệ các bạn bền tâm giữ vững đức tin.
Trong thời gian bị giam giữ, nhiều lần hai ông bị điệu ra công đường, buộc bước qua Thánh Giá, nhưng các ông cương quyết không làm theo. Các quan bèn tìm cách dụ dỗ, hứa trả tự do và ban nhiều tiền của, nếu hai ông đạp lên Thánh Giá. Hai ông đáp:
-Của cải đời này nay còn mai mất, không thể đem lại cho chúng tôi hạnh phúc vững bền. Chỉ có Chúa mới làm cho chúng tôi sống đời đời, được hưởng phước muôn đời. Chúng tôi quyết tin theo Chúa để được người thương ban hạnh phúc đó.
Các quan nổi giận kết án thiêu sống hai ông. Hai ông vui mừng vì được làm chứng cho Chúa, và thông phần trong việc cứu rỗi các linh hồn.
Sáng ngày 5 tháng 6 năm 1862, hai ông Đa Minh Toại và Đa Minh Huyên bước lên giàn hỏa thiêu. Trong khi ngọn lửa bốc cháy, hai ông cất tiếng hát ngợi khen và cầu xin Chúa thêm sức mạnh để hoàn thành sứ vụ.
Ngày 29 tháng 4 năm 1951, Đức Thánh Cha Piô XII tôn phong hai ông lên hàng Chân Phước, và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô tôn phong hai ông lên hàng Hiển Thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988.
vncatholic.org
Trường thi tử đạo
Ðaminh Huyên sinh năm Ðinh Sửu (1817) Ðaminh Toại hiện hữu Nhâm Thân (1812) Quê hương hai vị rất gần Ðông Thành Ba Lạt chuyên cần trên sông
Ðêm đánh cá hừng đông Ba Lạt Khi gió to thuyền bạt vô bờ Gia đình cuộc sống đơn sơ Vợ con trông đợi, đón chờ cầu mong
Nghề đánh cá trên sông, trên nước Sống qua ngày hưởng được bình an Bất ngờ chiếu chỉ vua ban Hai ông bị bắt, giải quan huyện liền
Ông Huyên khỏe, ưu tiên giải trước Ông Toại đau, tính chước vòi tiền Nhưng ông từ chối đi liền Ðón xe trình diện, chính quyền Quỳnh Côi
Trình quan án chúng tôi quyết định Cả Toại, Huyên khẳng định đức tin Tăng gia tống ngục xà lim Thời gian chín tháng kẹp kìm đòn roi
Lòng quả cảm được coi về Chúa Ủi an nhau đoan hứa sẵn sàng Công đường bị dẫn tới quan Ép buộc quá khóa, hoàn toàn chối không
Không lay chuyển hai ông chiến sĩ Các quan đều đề nghị thiêu sinh Hai ông biết án của mình Ca vang chúc tụng, tôn vinh Chúa Trời
Hai ông nhốt mỗi người một cũi Làm bằng tre ngồi cúi đợi chờ Bỗng đâu lửa phựt bất ngờ Ðông người hiện diện, cả giờ thiêu sinh
Hai chiến sĩ Ðaminh thọ án Thật kiên cường, xứng đáng mẫu gương Hai ngư phủ được Chúa thương Nhị bình sông nước, hành hương Nước Trời
Phúc tử đạo sáng ngời Nhâm Tuất (1862) Xác hai ông thiêu ngất khói cao Tân Mão (1951) Toà Thánh ban trao Suy tôn Á thánh tuôn trào hồng ân
Lời bất hủ: Ông Huyên bị tống ngục tù Tăng Già. Suốt thời gian chín tháng ở đây, mọi người có thể thấy rõ lòng quả cảm và kiên cường của ông Huyên, nào đói khát, nào đòn vọt và ngay cả án tử hình cũng không làm ông nản chí, ngược lại ông còn khích lệ các bạn tù kiên trì giữ vững đức tin của mình.
|